Trần Thị Tuyết
NCS Đại học La trobe, Melbourne, Australia
Lời giới thiệu
Toàn cầu hóa và tự do hóa đã và đang trở thành những xu thế tất yếu không chỉ chi phối các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế mà còn có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động trong lĩnh vực khoa học và giáo dục trên toàn thế giới. Dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa, giáo dục đại học đang dần trở thành một thứ hàng hóa được giao dịch trên thị trường kinh tế tri thức quốc tế thông qua các hoạt động đàm phán, trao đổi giữa các quốc gia. Hoạt động trao đổi này thường được đặt một cái tên khá mĩ miều: quốc tế hóa giáo dục. Quốc tế hóa giáo dục đại học đang dần trở thành một xu thế lớn, được nhiều hệ thống giáo dục đại học chọn lựa và coi nó như một điều kiện thuận lợi để phát triển và hội nhập với giới tri thức toàn cầu. Song khi cán cân thương mại quốc tế không cân bằng và khi tri thức đã bị coi như một thứ hàng hóa, thị trường kinh tế tri thức không chỉ mang tới cơ hội mà còn tiềm ẩn cả những thách thức và rủi ro, đặc biệt cho những kẻ yếu thế và non nớt trong thị trường này.
Bài viết này muốn đề cập tới một trong các rủi ro đó, đó là rủi ro dễ bị lệ thuộc hay nói cách khác là khả năng dễ dàng trở thành nạn nhân của chủ nghĩa thực dân mới (neocolonialism) đối với các nước nghèo, các nước có nền kinh tế và khoa học công nghệ kém phát triển. Nếu các nước này không đủ sắc bén để tạo chỗ đứng cho riêng mình, họ sẽ rất dễ dàng bị lệ thuộc vào các nước giàu, các nước có xu hướng “bán” tri thức của họ cho các nước nghèo thông qua rất nhiều hình thức khác nhau như hỗ trợ chuyên môn, các hiệp ước trợ giúp, các khoản vay có điều kiện, v.v… Bài viết trước hết sẽ tập trung phân tích các chiến dịch toàn cầu hóa, tự do hóa và quốc tế hóa trong giáo dục đại học, từ đó đi sâu phân tích xu thế dễ bị lệ thuộc của các nước nghèo, các nước đang phát triển vào các nước phát triển ở phương Tây. Song, không phải cứ nghèo, cứ chậm phát triển là sẽ thất bại trên thị trường tri thức quốc tế. Khả năng tồn tại, phát triển và thậm chí là trở thành kẻ thắng thế vẫn có thể tới với những nước có xuất phát điểm yếu thế hơn khi bắt đầu ra nhập thị trường tri thức quốc tế nếu các nước này biết tận dụng các nguồn lực sẵn có, biết lợi dụng nguồn lực bên ngoài một cách có chọn lọc và đưa ra được những hướng đi đúng đắn, phù hợp cho riêng mình.
Toàn cầu hóa và giáo dục đại học
Toàn cầu hóa (Globalisation) là một khái niệm không hề lạ lẫm với tất cả các quốc gia trên thế giới những thập niên gần đây. Đây là khái niệm được dùng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực và có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này. Trong lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa được dùng để chỉ việc dỡ bỏ hoặc cắt giảm các rào cản giữa các quốc gia giúp cho quá trình lưu thông hàng hóa, vốn, dịch vụ và lao động xuyên biên giới được dễ dàng hơn. Dưới ảnh hưởng đó, hiện tượng “dòng chuyển động của con người, văn hóa, ý tưởng, giá trị, tri thức, công nghệ và kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên mạnh mẽ và tạo nên một thế giới kết nối và phụ thuộc lẫn nhau” [1]. Các thế lực kinh tế, chính trị và xã hội của nền kinh tế toàn cầu “đẩy giáo dục đại học thế kỷ 21 theo hướng phát triển hội nhập quốc tế” [2]. Sự phát triển của công nghệ thông tin và việc sử dụng tiếng Anh như một thứ ngôn ngữ chung trong giao tiếp quốc tế giúp việc trao đổi học thuật giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn. Ngày càng có nhiều văn bản học thuật được ký kết giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau, việc cộng tác, cùng dạy, cùng nghiên cứu của các nhà khoa học ở các miền địa lý khác nhau xuất hiện ngày càng nhiều. Việc di chuyển từ nước này sang nước khác của sinh viên, giáo viên và các nhà nghiên cứu cũng trở nên dễ dàng và phổ biến hơn.
Chủ nghĩa tự do mới và bối cảnh tự do hóa thương mại
Chủ nghĩa tự do (liberalization) vốn là một hệ tư tưởng hay thậm chí là một thể chế trong nền kinh tế tư bản phương Tây. Theo thể chế này thì nền kinh tế, chính trị và các mối quan hệ xã hội ở một quốc gia sẽ phát triển tốt nhất nếu nó được vận hành dựa trên quyền lựa chọn tự do của các cá thể độc lập nhằm tìm kiếm lợi nhuận hoặc lợi thế cho riêng mình trong giới hạn cho phép. Tự do hoá thương mại kêu gọi loại bỏ các biện pháp hạn chế hay bảo hộ thương mại của chính phủ, để từ đó khuếch trương tối đa quyền bình đẳng và tự do mua bán trên thị trường.
Chủ nghĩa tự do mới (neocolonialism) là trào lưu tự do hóa và xóa bỏ hàng rào thuế quan và bảo hộ thương mại mậu dịch không chỉ trong phạm vi biên giới, mà quan trọng hơn là trong giao dịch xuyên biên giới [3]. Trào lưu này giúp cho hàng hoá di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Bối cảnh tự do hóa thương mại sẽ giúp giảm hàng rào thuế quan, thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia vào mậu dịch quốc tế. Các nhà sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ có thể được tiếp xúc với thị trường tiêu dùng rộng lớn và đa dạng hơn. Người tiêu dùng cũng có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hóa tốt hơn với giá cạnh tranh hơn. Chủ nghĩa tự do mới còn khơi mào cho việc sử dụng các cơ chế tự do ở bên ngoài phạm vi thương mại và kinh tế bằng cách tạo ra các thị trường mới trong lĩnh vực y tế, giáo dục, năng lượng, v.v… [4].
Giáo dục đại học cũng được coi như một hàng hóa để trao đổi tự do trên thị trường và trở thành điểm nhấn của nền kinh tế tri thức.Tổ chức thương mại thế giới WTO thông qua hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS đã coi giáo dục đại học như một hành hóa [5]. GATS muốn thiết lập một thị trường tri thức mở, tự do, giáo dục đại học nằm trong thị trường đó. Tri thứ ngày càng được coi như một thứ hàng hóa giống như các hàng hóa thông thường khác và được mua bán, trao đổi tự do trên thị trường. Việc tiếp cận với tri thức tiên tiến trở nên dễ dàng hơn. Người học, tùy vào túi tiền của mình có thể lựa chọn cho mình một hình thức học và một môi trường học tốt nhất và phù hợp nhất cho mình, không chỉ trong nước mà còn cả trong khu vực và trên thế giới. Việc liên kết và mở nhiều phân nhánh của cùng một trường đại học ở các nước khác nhau cũng được thực hiện dễ dàng hơn.
Quốc tế hóa giáo dục đại học
Toàn cầu hóa và tự do hóa mở rộng đường cho công cuộc quốc tế hóa giáo dục đại học trên phạm vi toàn cầu. Quốc tế hóa giáo dục đại học là quá trình các quốc gia đưa ra các chính sách và chủ trương mới trong giáo dục đại học để tận dụng những điều kiện thuận lợi và đối phó với những khó khăn và thách thức mới do quá trình toàn cầu hóa mang lại [6]. Theo Albach, trong khi toàn cầu hóa được coi là một xu thế tất yếu, không thể thay đổi, quốc tế hóa cho phép các nền giáo dục có cơ hội lựa chọn. Tuy có thể chọn lựa đứng ngoài vòng xoáy quốc tế hóa, nhưng trên thực tế hiếm có quốc gia nào đứng ngoài xu thế quốc tế hóa giáo dục đại học. Các hình thức của quốc tế hóa giáo dục đại học như: hiệp định hiệp ước đa quốc gia về giáo dục đại học, các hoạt động liên kết nghiên cứu và giảng dạy xuyên biên giới, các chương trình dành cho sinh viên quốc tế, các chi nhánh của các trường đại học ở ngoài nước, v.v… và v.v… đang ngày cành nở rộ và phát triển rộng rãi. Cán bộ và sinh viên các trường đại học có nhiều cơ hội được học tập và nghiên cứu ở ngoài phạm vi trường, phạm vi địa phương và phạm vi quốc gia. Dòng chảy kiến thức, cũng vì thế trở nên đa dạng và phong phú hơn. Đối với các nước đang phát triển, quốc tế hóa mang tới cho họ cơ hội dễ dàng tiếp cận với tri thức ở các nền giáo dục văn minh hơn. Có lẽ vì vậy mà quốc tế hóa đã từng được coi là "một nguồn lực quan trọng thúc đẩy việc phát triển giáo dục đại học vươn lên ngang tầm quốc tế” [7].
Toàn cầu hóa, tự do hóa và quốc tế hóa giáo dục đại học đã mang đến một diện mạo mới và một bối cảnh mới cho quá trình phát triển của các hệ thống giáo dục đại học. Việc cắt giảm các rào cản, sự phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin và sự ảnh hưởng sâu rộng của chủ nghĩa tự do mới cùng chủ chương liên kết, trao đổi giữa các trường, các hệ thống giáo dục đại học thuộc các quốc gia khác nhau đã giúp cho các hệ thống giáo dục đại học phát triển hơn bao giờ hết, không chỉ ở các nước phát triển, mà còn ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển có cơ hội trao đổi, học hỏi, tạo động lực đưa chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học của họ lên một tầm cao mới để hòa nhập và tăng tính cạnh tranh, tạo vị thế của mình trên thị trường giáo dục quốc tế. Song, trên thực tế, quá trình quốc tế hóa ở các hệ thống giáo dục đại học của các nước đang phát triển không dễ dàng và đơn giản như vậy. Cơ hội mới luôn đi kèm cùng rủi ro và thách thức mới. Rủi ro lớn nhất mà nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới, đó là xu thế các nước này ngày càng phụ thuộc vào các nước giàu trên thị trường tri thức, rủi ro dẫn họ dễ dàng rơi vào vòng xoáy của chủ nghĩa thực dân mới trong giáo dục đại học (neocolonialism in higher education).
Chủ nghĩa thực dân mới trong giáo dục đại học
Chủ nghĩa thực dân mới là khái niệm để chỉ “sự thống trị của một quốc gia bởi các lực lượng ở bên ngoài dù về mặt hình thức thì quốc gia đó vẫn là một quốc gia độc lập” [8]. Quá trình cai trị gián tiếp này được thực hiện thông qua sự mất cân đối về quyền lực và tầm ảnh hưởng giữa Bắc Cầu và Nam Cầu trong bối cảnh toàn cầu hóa, dưới sự ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức và sự phát triển của công nghệ thông tin. Xã hội đang được vận động theo các ‘dòng chảy’ như ‘dòng chảy vốn, dòng chảy thông tin, dòng chảy công nghệ, dòng chảy tương tác doanh nghiệp, dòng chảy hình ảnh, dòng chảy âm thanh and dòng chảy các biểu tượng’ [9]. Quan trọng hơn, các ‘dòng chảy’ này đa phần đơn chiều, từ ‘phương Tây’ chảy tới các phần còn lại của thế giới [10]. Để đảm bảo cho các dòng chảy này lưu thông, chủ nghĩa thực dân mới phải bao gồm ‘các chính sách của các nước công nghiệp tiên tiến nhằm duy trì sự thống trị của họ. Sự thống trị được vận hành qua các chương trình hỗ trợ tài chính nước ngoài, qua các chuyên gia kỹ thuật, qua phim ảnh và các phương tiện khác’ [11]. Mục đích của tất cả các hoạt động trên là kinh tế và chính trị, và giáo dục đại học trở thành ‘chính trường’ giúp các nước công nghiệp chiếm lĩnh thị trường thế giới.
Quốc tế hóa cũng trở thành một phương tiện để tăng quyền thống trị thị trường giáo dục của các nước phương Tây. Các chương trình giáo dục, các công cuộc cải cách, đổi mới giáo dục đa phần xuất phát từ phương Tây và dần trở thành tâm điểm ở các nước phương Đông [2]. Sự thống trị của phương Tây với phần còn lại của thế giới được thực hiện thông qua các quyết định đồng ý hoặc từ chối cung cấp các khoản vay hoặc các hình thức hỗ trợ kinh tế giáo dục [12]. Để có thể đáp ứng được các điều kiện của các khoản vay hoặc các sự hỗ trợ, rất nhiều nước thuộc địa cũ và các nước đang phát triển phải tìm cách chấp nhận hoặc đồng ý thỏa mãn các điều kiện được vay nợ hay các điều kiện được nhận hỗ trợ từ các nước phát triển phương Tây.
Sự khác nhau giữa mục tiêu cuả quá trình quốc tế hóa giáo dục giữa các nước phương Đông và các nước phương Tây là điều cần bàn. Ở các nước phương Tây, khi lợi nhuận là động cơ chính, quốc tế hóa giáo dục ở các nước này “được chi phối bởi các mục tiêu kinh tế và thương mại” [13]. Trong khi đó ở các nước phương Đông, các nước kém phát triển hơn, khi gật đầu đồng ý để các đại học nước ngoài thiết lập chi nhánh của họ trên nước mình hoặc cho phép họ dạy các chương trình của họ cho sinh viên địa phương, thậm chí ngay cả khi tìm cách lôi cuốn sinh viên nước ngoài vào thì mục đích đầu tiên của các nước này dường như là để nâng cao chất lượng dạy và học của các trường đại học ở trong nước, sau đó là để nâng cao chất lượng và mở rộng đối tượng sinh viên để nâng cao uy tín và vị thế trên trường quốc tế [2].
Sự mất cân đối Đông – Tây này đã giúp các nước phương Tây đễ dàng thực hiện chiến lược “từ trợ giúp đến thương mại” [14], vừa tăng được sự phụ thuộc của các nước kém phát triển hơn vào mình, vừa có thể thu bội lợi nhuận từ các hoạt động quốc tế hóa giáo dục dại học. Phương Tây đang là kẻ cung cấp, kẻ bán và xuất khẩu các dịch vụ giáo dục. Đương nhiên, các nước nghèo, yếu thế hơn đã trở thành người thu nhận, người mua và người nhập khẩu các dịch vụ đó. Sự mất cân đối này càng củng cố cho sự tồn tại và phát triển của xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa và tự do hóa trong giáo dục đại học, các xu thế được xuất phát từ các nhà tư bản phương Tây và tiến triển theo chiều hướng có lợi cho họ [15]. Các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu danh tiếng và quyền lực thống trị việc phát minh và phát tán tri thức nhân loại đều nằm ở các nước phương Tây. Các trường đại học yếu thế hơn, các hệ thống giáo dục với nguồn lực eo hẹp hơn và nguồn chất xám khiêm tốn hơn thường có xu thế đi theo. Các nhận định về quốc tế hóa, toàn cầu hóa và tự do hóa cũng đa phần xuất phát từ phương Tây và dường như được chấp nhận bởi các nước còn lại. Phương Tây dần tạo dựng cho mình một vị thế đặc quyền. Nhiều nước đang phát triển thì chật vật tìm mọi cách để học hỏi và đón nhận các chương trình, các định hướng đổi mới, các chuẩn mực do phương Tây đề xuất mà quên mất hoặc không đủ tiềm lực để đánh giá mức độ phù hợp của các chuẩn mực ấy so với điều kiện cụ thể của nền giáo dục địa phương.
Sự mất cân đối Đông Tây cũng làm cho dòng chảy tri thức của các nhà nghiên cứu, giáo viên và sinh viên đi theo chiều hướng ngược lại: từ các nước nghèo, các nước chậm phát triển hơn sang các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến [6]. Dòng chảy ngược này đã làm cho các nước kém phát triển hơn rơi vào tình trạng chảy máu chất xám và chảy máu nguồn vốn khi họ dần mất đi các nhà hoa học đầu ngành và nguồn tiền học phí của sinh viên cũng chảy ra khỏi khuôn khổ quốc gia. Ngay cả khi các nước đang phát triển tận dụng các cơ hội hỗ trợ, gửi sinh viên của mình sang học hỏi ở các nước tiên tiến, vẫn có ý kiến cho rằng phần lợi sẽ nghiêng về các nước cung cấp học bổng. Bởi số sinh viên này khi sang học sẽ tiếp cận và đón nhận các chuẩn mực và giá trị của hệ thống giáo dục của nước sở tại, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này xuất khẩu các chính sách giáo dục và nâng cao vị thế của họ ở các nước nhận hỗ trợ.
Thay cho lời kết
Dù các nước đang phát triển có quyền lựa chọn đứng ngoài vòng xoáy quốc tế hóa giáo dục đại học, tuy nhiên, trên thực tế, xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa và quốc tế hóa giáo dục đại học đang trở thành một xu thế quan trọng ở các nước này. Lực lượng thúc đẩy sự phát triển của các xu thế này không chỉ xuất phát từ các chính sách quốc gia mà còn đến từ “sự kêu gọi và áp lực từ các tổ chức quốc tế, khu vực và toàn cầu” [13]. Song, sự mất cân đối Đông Tây đã làm quá trình tự do hóa thương mại trở thành một quá trình trao đổi bất bình đẳng giữa kẻ mạnh và kẻ yếu, giữa kẻ chủ động và kẻ bị động, nó cũng làm cho quá trình toàn cầu hóa và quốc tế hóa giáo dục mang lại lợi nhuận cho các nước giàu và tăng sự lệ thuộc của các nước nghèo vào các nước này. Đó cũng chính là lý do mà Siraj-Blatchford [16] cho rằng toàn cầu hóa và quốc tế hóa đang làm cho thế giới của đa số (the majority world) phụ thuộc và thế giới của thiểu số (minority world – thế giới của các nước giàu có). Tuy nhiên, cũng có tranh luận cho rằng, tham gia vào ‘trò chơi’ quốc tế hóa và toàn cầu hóa, chưa chắc kẻ yếu đã là kẻ thật bại [17]. Việc sử dụng các khái niệm “Đông” – “Tây” cũng chỉ mang tính khái quát. Trong số các nước có nền công nghiệp phát triển ở phương Tây, vẫn có những nước mạnh và những nước yếu thế hơn. Ngược lại, trong số các nước đang phát triển ở phương Đông, cũng có một số nước đang dần vươn lên, để trước hết trở thành trung tâm mới của khu vực [18] và dần dần tạo được vị thế trên thị trường giáo dục quốc tế. Đã có những nước mới nổi, là hàng xóm của Việt Nam như Đài Loan, Singapore, Hong Kong và thậm chí cả Trung Quốc đang dần hạn chế việc nhập khẩu các ý tưởng và dịch vụ giáo dục của Phương Tây và đẩy mạnh việc xuất khẩu các hoạt động giáo dục của họ sang các nước khác. Việc thành công hay thất bại trong chiến dịch quốc tế hóa giáo dục phụ thuộc vào trí tuệ, tầm nhìn, ý chí và sự can đảm cũng như sự tự tin vào sức mạnh dân tộc, vào tiềm năng con người ở mỗi quốc gia, cùng với đó là những phương kế, chính sách và kế hoạch hành động phù hợp.
Tài liệu tham khảo
Knight, J., Higher Education Crossing Borders: A Guide to the Implications of the General Agreement on Trade in Services (GATS) for Cross-border Education: A Report Prepared for the Commonwealth of Learning and UNESCO. 2006.
Altbach, P.G. and J. Knight, The internationalization of higher education: Motivations and realities. Journal of Studies in International Education, 2007. 11(3-4): p. 290-305.
Harvey, D., A brief history of neoliberalism2005, Oxford: Oxford University Press.
Davies, P.B. and P. Bansel, Neoliberalism and education. International Journal of Qualitative Studies in Education, 2007. 20(3): p. 247-259.
Altbach, P.G., Globalisation and the University: Myths and Realities in an Unequal World. Tertiary Education and Management, 2004. 10: p. 3-25.
Altbach, P.G., Perspectives on international higher education. Change: The Magazine of Higher Learning, 2002. 34(3): p. 29-31.
Qiang, Z., Internationalization of Higher Education: towards a conceptual framework. Policy Futures in Education, 2003. 1(2): p. 248-270.
Bray, M., Education and Vestiges of Colonialism: Self-determination, neocolonialism and Dependency in the South pacific. Comparative Education, 1993. 29(3): p. 333-348.
Castells, M., The rise of the network society2000, Second edition. Oxford: Blackwell.
Rizvi, F., Debating Globalization and Education after September 11. Comparative Education, 2004. 40(2): p. 157-171.
Albach, P.G. and G.P. Kelly, Education and Colonialism1978, New York: Longman.
Phuong-Mai Nguyen, et al., Neocolonialism in Education: Cooperative Learning in an Asian Context. Comparative Education, 2009. 45(1): p. 109 – 130.
Huang, F., Internationalization of higher education in the developing and emerging countries: A focus on transnational higher education in Asia. Journal of Studies in International Education, 2007. 11(3-4): p. 421-432.
Harman, G., Internationalization of Australian higher education: A critical review of literature and research. Internationalizing higher education, 2005: p. 119-140.
Tran Thi Tuyet, Internationalisation of higher education in Vietnam: Opportunities and challengs, in Internationalisation of higher education: North-South perspectives2012, International School, Vietnam National University, Hanoi: Hanoi.
Siraj-Blatchford, J., Editorial: Education for sustainable development in early childhood. International Journal of Early Childhood, 2009. 41(2): p. 9-22.
Wang, Y., Internationalization in Higher Education in China: A Practitioner’s Reflection. Higher Education Policy, 2008. 21(4): p. 505-517.
Galtung, J., Fred, Vold and Imperalism1974, Olso: Dreyers Forlag.
Trả lời